Cá lóc kho nghệ
Ẩm thực Việt Nam được xem là một trong những nền văn hoá ẩm thực tinh tuý và lành mạnh nhất thế giới. Nhưng người Việt đang sinh sống khắp nơi trên thế giới, việc duy trì nếp ăn uống và khẩu vị Việt Nam không chỉ vì mục đích sức khoẻ, mà xem đó như một cách để gìn giữ một phần quê hương trong bản thân mình.
Ở người, có 5 mức nhu cầu về thực phẩm

Nhu cầu an toàn thường bộc lộ khi ta gặp chuyện lo lắng, ức chế hoặc thiếu tự tin. Những thực phẩm cho nhu cầu an toàn thường được chọn nhờ vị ngọt (gợi lại vị ngọt của sữa mẹ) và mối liên hệ chặt chẽ với ký ức về mái ấm gia đình khi còn bé.

Những bà mẹ muốn con ăn nhiều chóng lớn thì dùng thực phẩm để thoả mãn nhu cầu cho và nhận tình cảm.

Tồn tại:

Ăn đều dặn, hàng ngày để cơ thể tồn tại.

An toàn:

Khi nguồn lương thực đã đủ sống người ta thường quan tâm đến sự an toàn của nguồn cung cấp. Do đó người ta sẽ dự trữ để dành. Một số loại thực phẩm tượng trưng cho sự an toàn do có liên quan đến gia đình.

Tình cảm:

Người ta có thể nấu nướng và tặng nhau các món ăn để biểu lộ tình cảm. Ăn hoặc khen tặng là cách đáp lại tình cảm của người mời, còn từ chối thức ăn cũng đồng nghĩa với từ chối lời mời.

Địa vị:

Trổ tài nấu nướng cũng là cách khẳng định địa vị thông qua cách chứng minh khả năng. Đây cũng là cách xác lập và duy trì lòng tự trọng.

Chủ nghĩa cá nhân:

Thực phẩm trở thành phương tiện biểu hiện cá nhân thông qua cách chế biến món ăn và sắp xếp thự đơn, bộc lộ phong cách, và thông qua thử nghiệmNhớ lại hè rồi mới xuống quê
Anh Ba đãi món nướng tràn trề
Sau hè lá lốt đầy như cỏ
Trước cửa heo, bò cả mấy xe
Nạc lợn, thăn bò băm thật nhuyễn
Đường, tiêu, tỏi, sả ướp thêm nè
Cho vào lá lốt rồi xong cuốn
Nướng vĩ than hồng... nhậu khoẻ re.
Văn hóa tinh thần của người Việt trong ẩm thực chính là sự thể hiện nét đẹp trong văn hóa giao tiếp, là sự cư xử giữa người với người trong bữa ăn, làm vui lòng nhau qua thái độ ứng xử lịch lãm, có giáo dục. Việc ăn uống đều có những phép tắc, lề lối riêng, từ bản thân, đến trong gia đình, rồi các mối quan hệ ngoài xã hội.
Cứ thế, những bàn tay ngày ngày vùi trong đất xốp ươm một nhành rau răm hay tắm dưới vòi nước rửa sạch mớ rau bắp cải muối xổi kịp món thịt đông cho mâm cơm Tết xa quê được bay xa, len dần cả vào những chiếc bao tử vốn chỉ quen với gà rán và bánh kẹp thịt ăn vội vã thiếu vắng đi hương vị của trời đất chuyển mùa.
Văn hóa ẩm thực truyền thống là nét văn hóa tự nhiên trong cuộc sống đời thường. Đối với người Việt Nam, ẩm thực không những là nét văn hóa về vật chất mà còn là văn hóa truyền thống về tinh thần. Qua những nét đẹp từ ẩm thực người ta có thể hiểu biết thêm về văn hóa Việt Nam thể hiện rõ nét phẩm giá con người, trình độ văn hóa của dân tộc với những đạo lý, phép tắc cũng như phong tục trong cách ăn uống ở nước ta…
Bởi vì thực phẩm đáp ứng những nhu cầucủa cảm xúc và xác định gốc xã hội văn hoá của một cá nhân. Các nghiên cứu trên dân nhập cư cho thấy trang phục và ngôn ngữ là những thứ có thể thay đổi dễ dàng để thích nghi với nền văn hoá mà họ đang sống, nhưng thay đổi thói quen ẩm thực thì mất nhiều thời gian hơn. Trong mỗi nhóm xã hội thường có những qui ước bất thành văn về nhũng gì ăn được và những gì không. Do đó, thực phẩm là những món được lấy từ những thứ ăn được (là những thứ có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cho cơ thể, nhưng chưa được xem là thực phẩm). Không có nền văn hoá nào gọi tất cả những thứ ăn được là thực phẩm. Do đó mà thịt chó được chấp nhận ở Trung quốc, còn ở châu Âu thì không, còn hạt kê, một loại ngũ cốc chủ lực của nhiều nước Châu Phi thìbị nhiều nước dùng để nuôi chim.
Đối với bất cứ một quốc gia điểm đến nào, trong danh mục sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, cả vật thể và phi vật thể phục vụ khách du lịch, thì các món ăn và cả thức uống luôn được nhìn nhận là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu để hấp dẫn du khách.